Lao động nữ làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và vai trò của công đoàn
Nghiên cứu - 11/09/2021 10:36 TS. Trần Thị Tuyết Nhung - Phó Giám đốc Học viện Thanh thiếu niên
Theo thống kê, các KCN tỉnh Bắc Giang có khoảng trên 84.000 lao động nữ, nhưng chỉ có khoảng hơn 20% đã qua đào tạo nghề. Trong ảnh:Công nhân Công ty TNHH SJ TECH Việt Nam (KCN Vân Trung, Bắc Giang). Nguồn: Baobacgiang.com.vn. |
1. Tình hình lao động nữ tại các KCN, KCX
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 9/2020, cả nước có 366 KCN được thành lập, trong đó có 279 KCN đang hoạt động, chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2020 ước tính là 74,4%, trong đó LĐN chiếm 68,9%. LĐN có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp, nhất là đối với những ngành nghề đòi hỏi sự khéo léo và linh hoạt như như may mặc, giày da, chế biến thủy sản, lắp ráp linh kiện điện tử... Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất trên thế giới, trong đó lực lượng LĐN của các ngành như Dệt may, Da giày, Điện tử chiếm 70% và 64% ở các KCN1.
Theo kết quả một điều tra trên 298 công nhân KCN thì có 101/298 là lao động nam, chiếm tỷ lệ 33,9% (nữ 61,1%). Trong đó, với 173 người đã kết hôn thì có 74/173 lao động nam, chiếm 42,8% (nữ 57,2%). Về trình độ học vấn, có 1% LĐN có trình độ tiểu học; 7,1% có trình độ trung học cơ sở; 91,1% có trình độ THPT. LĐN đang làm việc trong KCN chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ 50,5%; tỷ lệ LĐN được đào tạo ngắn hạn trong doanh nghiệp là 18,2%; LĐN có trình độ trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ không cao 2.
. Các quy định của pháp luật lao động hiện thể hiện rõ sự quan tâm, ưu ái đối với LĐN trên tất cả các phương diện như việc làm, tuyển dụng, tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi... Tuy nhiên, nhiều quyền lợi đối với LĐN vẫn không được bảo đảm bởi các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, LĐN tại các KCN ở Việt Nam chủ yếu là lao động di cư từ khắp các vùng nông thôn với mong muốn tìm được một công việc nhẹ nhàng và thu nhập cao hơn. Các doanh nghiệp tại các KCN thường đặt ra yêu cầu tuyển dụng lao động khéo léo, tỷ mỉ, chăm chỉ để thực hiện các công việc như may mặc, lắp ráp linh kiện điện tử... do vậy, họ sử dụng đến 90% là LĐN, điều này dẫn đến những hệ lụy về nhà ở, về điều kiện sống, về y tế, đời sống văn hóa, tinh thần, về nhà trẻ cho LĐN có con nhỏ…
Một số doanh nghiệp dệt may, da giày, điện tử ở Các khu công nghiệp, Khu chế xuất có tỷ lệ lao động nữ lên tới 90%. Trong ảnh: Công nhân Công ty Betheo Quốc tế Phú Thọ tại Cụm công nghiệp Hợp Hải. |
Thứ hai, . Thực tế, việc thực thi chế độ, chính sách đối với LĐN ở nhiều doanh nghiệp còn tùy tiện, nhất là trong bố trí việc làm, giờ giải lao và làm thêm giờ. Thậm chí nhiều doanh nghiệp không tuyển dụng LĐN hoặc khi tiếp nhận đã ép LĐN cam kết không sinh con trong 2 - 3 năm đầu. Nhiều doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng ngắn hạn để không phải đóng BHXH cho LĐN. Một số doanh nghiệp cho rằng những quy định ưu tiên, ưu đãi đối với LĐN là gánh nặng tài chính của doanh nghiệp mình. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện bình đẳng giữa LĐN với lao động nam tại nơi làm việc. Vẫn còn tình trạng LĐN bị xúc phạm, đối xử thô bạo tại một số doanh nghiệp. Theo thống kê của Ban Nữ công, Tổng LĐLĐ Việt Nam, tại các doanh nghiệp, số LĐN được hưởng chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức rất ít, một số chế độ thai sản như nghỉ 60 phút cho con bú, 30 phút vệ sinh kinh nguyệt đều bị vi phạm. Nhiều trường hợp doanh nghiệp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật với LĐN khi mang thai, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Thứ ba, LĐN chủ yếu là lao động trẻ, trình độ kiến thức còn hạn chế. Kết quả điều tra của tổ chức Action aid Việt Nam (AAV) ở 50 doanh nghiệp trên cả 3 miền thì LĐN từ 18 - 40 tuổi chiếm 97,9%, có tới 44,3% chưa qua đào tạo, đối với lao động đã qua đào tạo thì có tới 77% phải đào tạo lại tại các doanh nghiệp mới có thể đáp ứng công việc. Hầu hết nữ công nhân làm việc tại các KCN đều là lao động phổ thông, không có trình độ học vấn và tay nghề. Ví dụ, các KCN tỉnh Bắc Giang có khoảng trên 84.000 LĐN, trong đó trình độ THCS chiếm dưới 50%, THPT là trên 50% và chỉ có khoảng hơn 20% LĐN đã qua đào tạo nghề3. Trình độ nghề thấp nên mức tiền lương bình quân của LĐN luôn thấp hơn của lao động nam.
Trong những năm gần đây, việc thúc đẩy , nhiều doanh nghiệp cũng ý thức được tầm quan trọng của LĐN. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền của LĐN tại các KCN vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập về nhà ở, trường học cho con của LĐN… Việc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do CĐCS chưa thực hiện tốt vai trò của mình trong bảo vệ quyền lợi cho LĐN.
Lao động nữ nhìn chung trình độ tay nghề thấp hơn nam giới, nên thu nhập cũng thấp hơn. Trong ảnh: Công nhân đo sản phẩm của Công ty TNHH công nghệ Nissei Việt Nam (Khu công nghiệp Phúc Điền, Hải Dương). |
2. Vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ quyền của LĐN tại các KCN
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN và của NLĐ, một trong những chức năng cơ bản của công đoàn là chăm lo đời sống và đại diện bảo vệ quyền lợi của cán bộ, CNVCLĐ. Đối với NLĐ trong các KCN nói chung và LĐN nói riêng, CĐCS đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đại diện bảo vệ quyền lợi của nhóm lao động này, bởi lẽ CĐCS là tổ chức gần nhất với NLĐ, hiểu rõ nhất đời sống và điều kiện làm việc của họ, đồng thời được pháp luật trao quyền và công cụ để có thể đứng ra đại biện và bảo vệ quyền lợi cho NLĐ. Bộ luật Lao động 2019 quy định NLĐ có thể có nhiều hơn một tổ chức đại diện cho mình, công đoàn cần nâng cao vai trò của mình trong việc đại diện tập thể NLĐ nói chung, LĐN nói riêng.
Để nâng phát huy vai trò mình trong việc bảo vệ quyền của NLĐ, đặc biệt là LĐN trong các KCN, theo chúng tôi, CĐCS các KCN cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, cán bộ công đoàn phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng vận động NLĐ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và công tác trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật để NLĐ được nghiên cứu, học tập, tìm hiểu pháp luật; đặc biệt chú ý đối tượng là LĐN.
Hai là, công đoàn phải luôn gần gũi, liên hệ mật thiết với NLĐ để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc, kiến nghị của họ, có biện pháp kịp thời giải quyết hoặc phối hợp với cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, trong đó có LĐN.
Ba là, công đoàn cần phối hợp chặt chẽ với ban quản lý KCN yêu cầu các doanh nghiệp ký kết HĐLĐ với NLĐ; chủ động phối hợp với lãnh đạo doanh nghiệp xây dựng và thương lượng, ký kết TƯLĐTT; xây dựng nội quy lao động; bảo đảm các quyền lợi của LĐN.
Lãnh đạo Liên đoàn Lao động quận Tân Bình, TP.. Hồ Chí Minh đại diện người lao động ký kết Thỏa ước lao động tập thể với Giám đốc Công ty TNHH Nghiên cứu Thị trường Công nghệ và Bán lẻ GFK Việt Nam. |
Bốn là, công đoàn cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của LĐN như tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi, khám sức khỏe định kỳ, khám chuyên khoa phụ sản, chế độ thai sản, nuôi con nhỏ, hỗ trợ chi phí gửi trẻ; kiến nghị với lãnh đạo doanh nghiệp giải quyết những băn khoăn, thắc mắc; đóng góp ý kiến với doanh nghiệp nhằm cải thiện môi trường, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi cho NLĐ, thực hiện HĐLĐ, mua BHXH và BHYT cho NLĐ, đặc biệt là LĐN.
Năm là, các CĐCS cần nắm vững kế hoạch chỉ đạo của Ban Quản lý các KCN, tăng cường mối quan hệ phối hợp công tác giữa cán bộ công đoàn với cán bộ các phòng, ban chức năng của Ban Quản lý, của LĐLĐ tỉnh nhằm hỗ trợ tốt nhất cho NLĐ, nhất là LĐN.
Bộ luật Lao động 2019 với nhiều điểm mới quy định về chính sách và bảo đảm bình đẳng giới đối với LĐN phù hợp với các công ước quốc tế của ILO. Điều đó thể hiện ở việc LĐN không chỉ được đảm bảo những quyền lợi chung mà còn có những quy định dành riêng cho nhóm đối tượng này. Vì vậy, để LĐN thực sự được hưởng những quyền lợi do pháp luật quy định, đòi hỏi các cấp công đoàn, nhất là CĐCS tại doanh nghiệp ở các KCN cần nâng cao vai trò của mình trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi NLĐ nói chung, LĐN nói riêng.
Lao động nữ ngày càng được quan tâm hơn, song giữa họ và nam giới vẫn còn tồn tại bất bình đẳng giới. Ảnh minh họa. |
Chú thích:
1 Giới và thị trường lao động ở Việt Nam: Phân tích dựa trên số liệu điều tra lao động - việc làm của ILO tại Việt Nam, công bố ngày 4/3/2021.
2 Vũ Thị Hồng Tứ (2016), Đáp ứng nhu cầu giải trí cho công nhân ở KCN, Tạp chí Văn hiến Việt Nam.
3 Nguyễn Thị Kim Thanh, Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nữ CNLĐ trong các KCN tỉnh, Cổng thông tin LĐLĐ tỉnh Bắc Giang ngày 23/12/2020.
Vai trò của Ban Nữ công Công đoàn trong chăm lo, bảo vệ cho lao động nữ Từ những phát hiện, đề xuất, kiến nghị của BNC công đoàn các cấp, Tổng Liên đoàn và các cấp công đoàn đã chủ động ... |
Covid-19 sẽ khiến điều kiện thị trường lao động nửa cuối năm 2021 trở nên tệ hơn Số các ca mắc Covid-19 có xu hướng gia tăng và tiến độ triển khai vaccine chậm có thể tiếp tục kéo dài |
Truyền thông có đạo đức, trách nhiệm giúp nâng vị thế bình đẳng cho lao động nữ di cư Bà Valentina Barcucci - Quyền Giám đốc Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam nói rằng lao động nữ di cư đang ... |
Tin cùng chuyên mục
Nghiên cứu - 09/09/2024 13:38
Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nêu rõ “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Nghiên cứu - 21/06/2024 16:35
Tình đoàn kết tạo ra quyền lực cho tổ chức
Nhân Tháng Công nhân 2024, TS. Phạm Thị Thu Lan, nhà nghiên cứu quen biết về phong trào công nhân, hoạt động công đoàn (công tác tại Viện Công nhân và Công đoàn) có bài viết về tình đoàn kết và niềm tin của NLĐ, điều sẽ tạo ra quyền lực mềm cho tổ chức Công đoàn. Tạp chí LĐ&CĐ xin giới thiệu với bạn đọc phân tích thú vị và rất đáng suy ngẫm này.
Nghiên cứu - 28/05/2024 15:33
Bài 3: Xây dựng chính sách đồng bộ, hiệu quả cho người lao động tiếp cận, thụ hưởng
Hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm ở nước ta đã được chú trọng xây dựng, hoàn thiện nhưng vấn đề tiếp cận, thụ hưởng chính sách của người lao động còn cần được cải thiện hơn nữa.
Nghiên cứu - 28/05/2024 14:54
Bài 2: Cơ sở xây dựng lực lượng lao động năng suất, tiến bộ
Cơ sở để bảo đảm việc làm, thu nhập, chăm lo đời sống, đáp ứng nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người lao động (NLĐ) xuất phát từ các tiền đề về tiền lương, phúc lợi về nhà ở, sức khỏe y tế, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần, hỗ trợ chăm sóc con em.
Nghiên cứu - 28/05/2024 10:28
Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay
Với sự nỗ lực, tự học hỏi, rèn luyện, công nhân đã có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp khá cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu - 24/05/2024 18:18
Đón đọc Tạp chí An toàn vệ sinh lao động, số 346, tháng 5 - 2024
Số An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) tháng 5 là số đặc biệt, tăng từ 64 lên 80 trang, in màu trên giấy couche, xuất bản - phát hành ngày 25/5/2024 đến các cấp công đoàn, đội ngũ an toàn vệ sinh viên, cán bộ an toàn các đơn vị sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trên toàn quốc.
- Triển khai mua bán vàng (digiGOLD) trên ứng dụng số VietinBank iPay Mobile
- Nước sông dâng cao, nhiều địa phương cấm, hạn chế các phương tiện lưu thông qua cầu
- Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm hỏi đồng bào, chiến sĩ bị ảnh hưởng của bão số 3
- Ô tô hư hỏng do thiên tai được bảo hiểm đền bù như thế nào?
- Đắk Lắk: Gần 1.200 vận động viên tham gia hội thao do công đoàn tổ chức