|
Theo số liệu của Ban cung ứng thuyền viên tàu cá - Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam, vào thời kỳ cao điểm, Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản khoảng 5.000 thuyền viên (chủ yếu là các tàu cá đánh bắt xa bờ). Tuy nhiên, pháp luật về cung ứng lao động là thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu cá nước ngoài vẫn chưa hoàn thiện, nhất là về vấn đề trách nhiệm của tổ chức cung ứng thuyền viên; kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng thuyền viên được xuất khẩu. Quy định của pháp luật về cung ứng lao động là thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu đánh cá nước ngoài. Về chủ thể đào tạo, cung ứng lao động thuyền viên Trong chuỗi đào tạo, huấn luyện, cung ứng thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu đánh cá thuộc sở hữu, quản lý của chủ tàu nước ngoài, có nhiều bên tham gia như: Các tổ chức, công ty trong nước có chức năng xuất khẩu thuyền viên (gọi chung là tổ chức xuất khẩu thuyền viên); chủ tàu hay người khai thác, quản lý, tàu nước ngoài và thuyền viên Việt Nam. Trong chuỗi này cơ bản gồm ba khối: Cơ sở giáo dục, đào tạo hàng hải; trung tâm huấn luyện hàng hải và tổ chức cung ứng thuyền viên xuất khẩu. Còn tổ chức tuyển dụng, cung ứng thuyền viên hàng hải là doanh nghiệp được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực tuyển dụng, cung ứng lao động là thuyền viên làm việc trên tàu biển thông qua hình thức cho thuê hoặc cho thuê lại hoặc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành, một tổ chức Việt Nam được cấp phép đưa thuyền viên đi làm việc trên các tàu đánh cá nước ngoài (xuất khẩu lao động) phải ký hai hợp đồng: (1) Hợp đồng với bên đối tác nước ngoài, gọi là hợp đồng cung ứng lao động. (2) Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, được ký kết với thuyền viên Việt Nam. |
Một thuyền viên Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc theo con đường xuất khẩu lao động. Ảnh: ST
|
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về cung ứng lao động là thuyền viên Trong hoạt động cung ứng thuyền viên luôn tồn tại một bên chủ thể là người nước ngoài hay còn gọi là người sử dụng lao động (chủ tàu hoặc người khai thác tàu) thông qua tổ chức cung ứng thuyền viên của Việt Nam để thuê thuyền viên làm việc trên các tàu đánh cá mang quốc tịch nước ngoài. Trong quan hệ lao động này, thuyền viên Việt Nam thường là chủ thể yếu thế hơn nên đối mặt với nhiều nguy cơ như bị lạm dụng sức lao động, làm việc trong các điều kiện không đảm bảo an toàn tiêu chuẩn chung, bị đối xử về chế độ tiền lương và các điều kiện sinh hoạt không bảo đảm theo các yêu cầu của luật pháp quốc tế. Hệ thống pháp luật của quốc gia mà thuyền viên mang quốc tịch chưa đủ mạnh để bảo vệ họ trước khi ký hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, khác với những quan hệ lao động thông thường, thuyền viên là nghề đặc thù đòi hỏi phải có kiến thức và tay nghề cao, cường độ lao động vất vả, chịu ảnh hưởng của môi trường khắc nghiệt, rủi ro giữa muôn trùng sóng gió; các con tàu lênh đênh trên biển còn là đối tượng luôn bị rình rập bởi cướp biển và những tai nạn bất ngờ. |
Hạn chế trong quy định về trách nhiệm của tổ chức cung ứng lao động là thuyền viên Các tổ chức cung ứng thuyền viên ở Việt Nam được phân loại thành hai nhóm chính: (1) Nhóm các doanh nghiệp quy mô, có kinh nghiệm trong công tác xuất khẩu thuyền viên; hay những doanh nghiệp mới thành lập, nhưng khá chuyên nghiệp và có đối tác là những chủ tàu hoặc người quản lý hay khai thác tàu lớn, uy tín, tại các nước tiên tiến, có ngành Hàng hải phát triển. (2) Nhóm doanh nghiệp nhỏ lẻ, có năng lực và tiềm lực hạn chế, tư tưởng làm ăn ngắn hạn, ít có sự đầu tư, chỉ được hoạt động khi được cấp “Giấy xác nhận phù hợp về tuyển dụng và cung ứng thuyền viên hàng hải” (gọi chung là giấy xác nhận) – văn bản do Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam cấp cho tổ chức tuyển dụng, cung ứng thuyền viên hàng hải để xác nhận sự phù hợp về tuyển dụng và cung ứng thuyền viên hàng hải theo quy định của MLC. Trong quan hệ lao động này, vai trò của các tổ chức cung ứng thuyền viên là trung gian để đưa thuyền viên đi làm việc trên các tàu đánh cá nước ngoài. Trên thực tế đã có nhiều doanh nghiệp cung ứng thuyền viên, nhất là những doanh nghiệp nhỏ lẻ, chỉ chú trọng đến lợi nhuận nhỏ trước mắt, mà chưa có định hướng lâu dài, thiếu trách nhiệm với thuyền viên. Điều này là nguyên nhân phát sinh nhiều tranh chấp và gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành cũng chỉ mới dừng lại ở quy định về giấy xác nhận, các trường hợp và thủ tục cấp, cấp lại, thu hồi giấy xác nhận chứ chưa hề có quy định chi tiết về trách nhiệm của tổ chức cung ứng thuyền viên. Ngoài ra cũng chưa có các quy định trong quản lý nhằm tạo ra tính liên kết giữa các bên liên quan đến chuỗi hoạt động xuất khẩu thuyền viên, bao gồm cơ sở đào tạo hàng hải, các trung tâm huấn luyện thuyền viên và các doanh nghiệp xuất khẩu thuyền viên để các bên có thể tìm được tiếng nói chung. |
Hạn chế trong quy định về kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng thuyền viên được xuất khẩu Theo đánh giá chung, chất lượng thuyền viên xuất khẩu của Việt Nam là không đồng đều. Chất lượng tùy thuộc vào cơ sở đào tạo, huấn luyện hàng hải, tinh thần, thái độ đối với nghề nghiệp, trình độ chuyên môn và sự phân công vị trí, cũng như đội tàu mà thuyền viên làm việc. Bất cứ quốc gia nào, nếu thuyền viên không được đào tạo theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế về tiêu chuẩn huấn luyện, cấp chứng chỉ và trực ca cho thuyền viên năm 1978, sửa đổi năm 2010 (STCWW78/2010) thì thuyền viên cũng như những con tàu mang cờ của quốc gia đó phải qua sự kiểm soát ngặt nghèo của các quốc gia tham gia Công ước mới được chấp nhận hoạt động tại quốc gia của họ. Mặc dù thuyền viên Việt Nam đã được đào tạo, huấn luyện và cấp chứng chỉ theo tiêu chuẩn của Công ước này nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế. |
Thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu cá Hàn Quốc. Ảnh: ST |
Công tác đào tạo, huấn luyện hàng hải hiện nay còn chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng, nhất là chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ tàu, chưa theo kịp trình độ của các nước trong khu vực, các nước tiên tiến trên thế giới và sự chuyển biến trong xu hướng phát triển của ngành Hàng hải, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa. Chất lượng đào tạo tại các cơ sở hàng hải là không đồng đều, vì nhiều nguyên nhân khác nhau như: Chất lượng sinh viên nhập học là khá khác biệt; cơ sở vật chất không đồng bộ; đội ngũ giảng dạy còn nhiều chênh lệch; công tác quản lý sinh viên có sự khác biệt rất lớn giữa các cơ sở... và đặc biệt là sự hạn chế trong quy định về kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng thuyền viên được xuất khẩu. Bên cạnh đó, hiện nay, trong các văn bản luật và dưới luật điều chỉnh quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ lao động thuyền viên nói riêng đều chưa được quy định thành một chế định, một mục riêng trong đó. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng thuyền viên được xuất khẩu. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về cung ứng lao động là thuyền viên làm việc trên tàu cá nước ngoài Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật hiện hành về cung ứng thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu đánh cá nước ngoài, tác giả đề xuất một số giải pháp sau: Về trách nhiệm của tổ chức cung ứng lao động là thuyền viên Cần quy định chi tiết về trách nhiệm của tổ chức cung ứng thuyền viên, cụ thể nên bổ sung quy định về điều kiện cơ sở đào tạo, huấn luyện và tổ chức tuyển dụng, cung ứng thuyền viên hàng hải các điều khoản riêng quy định về “Trách nhiệm của tổ chức cung ứng thuyền viên”, với nội dung: a) Bảo đảm thuyền viên được thông tin về các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng lao động thuyền viên hoặc hợp đồng cung ứng thuyền viên và bảo đảm thuyền viên được kiểm tra hợp đồng lao động của mình trước và sau khi ký. Đồng thời, phải cung cấp cho thuyền viên một bản hợp đồng lao động thuyền viên đã ký và bản sao hợp đồng cung ứng thuyền viên (nếu có); b) Theo dõi tình trạng việc làm của thuyền viên đã tuyển dụng hoặc cung ứng cho chủ tàu; c) Thường xuyên cập nhật danh sách tất cả các thuyền viên được tuyển dụng hoặc cung ứng để cơ quan có thẩm quyền kiểm tra; d) Thỏa thuận rõ ràng với chủ tàu về các biện pháp bảo vệ thuyền viên không bị lưu lại tại một cảng nước ngoài và việc hồi hương cho thuyền viên, trừ trường hợp thuyền viên bỏ trốn khỏi tàu; đ) Bồi thường cho thuyền viên các thiệt hại về tài chính mà thuyền viên phải gánh chịu do lỗi của mình hoặc của chủ tàu có liên quan theo hợp đồng lao động của thuyền viên; e) Giải quyết các khiếu nại liên quan đến hoạt động của tổ chức mình và báo cáo Cục Hàng hải Việt Nam những khiếu nại chưa được giải quyết. Bên cạnh đó, cần thiết phải quy định rõ hơn về chức năng phối hợp trong chuỗi cung ứng thuyền viên của các cơ sở đào tạo hàng hải, các trung tâm huấn luyện thuyền viên và các doanh nghiệp xuất khẩu thuyền viên nhằm tạo ra tính liên kết giữa các bên liên quan để các bên có thể tìm được tiếng nói chung và phát huy tối đa vai trò của mình. Về kiểm soát tiêu chuẩn, chất lượng thuyền viên được xuất khẩu Cần ban hành các quy định nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu nguồn nhân lực thuyền viên xuất khẩu. Đây sẽ là một cơ sở vững chắc để quản lý, phát triển nguồn nhân lực thuyền viên xuất khẩu trong tương lai, góp phần kiểm soát chất lượng thuyền viên hiệu quả hơn, cũng như giảm thiểu các tranh chấp, xung đột phát sinh giữa các bên trong chuỗi cung ứng thuyền viên. |
Thuyền viên tàu cá. Ảnh: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu. |