Ảnh minh họa. Nguồn: laodong.vnđảm bảo quyền lợi, SỨC KHỎE VÀ tính mạng CHO NGƯỜI LAO ĐỘNg |
(Đại hội XIII của Đảng) đã khẳng định: “Từng bước xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc của nhân dân”. Phần định hướng phát triển đất nước cũng nêu rõ: "Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”. Đó là nhiệm vụ, đồng thời là cơ hội của công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) mà các cấp, các ngành, trong đó có tổ chức Công đoàn thực hiện trong thời gian tới. |
Những yêu cầu về ATVSLĐ giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030 |
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, trong đó có nêu “Triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống thảm hoạ, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, an toàn lao động; phòng, chống tai nạn, thương tích, cháy, nổ, bệnh nghề nghiệp” và tiếp tục triển khai Chỉ thị số 29-CT/TW của Ban Bí thư năm 2013 về trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đã đặt ra ngay yêu cầu phải xây dựng các tiêu chí về ATVSLĐ trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hướng tới tập trung để triển khai và có đánh giá theo các chỉ tiêu, tiêu chí đã thống nhất. Ngày 4/6/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 681/QĐ-TTg về việc ban hành lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030 trong đó các chỉ tiêu thuộc lĩnh vực ATVSLĐ đến năm 2025 và 2030, gồm: Giảm tần suất tai nạn lao động hàng năm là 5%; Giảm tần suất tai nạn lao động chết người hàng năm là 4,5%; Giảm tần suất tai nạn lao động thương tật nặng hàng năm là 4,5%. Để Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, dự báo giai đoạn 2021 - 2025, những vấn đề cấp bách về ATVSLĐ và chăm sóc sức khỏe người lao động cần giải quyết, như: Ngăn chặn sự gia tăng tai nạn lao động, đặc biệt là các vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết nhiều người trong lĩnh vực xây dựng, khai khoáng, hóa chất, hóa dầu, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19; Tăng cường giám sát ô nhiễm môi trường lao động, từng bước cải thiện điều kiện lao động, chăm sóc và nâng cao sức khỏe người lao động, xây dựng văn hóa ATVSLĐ, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu; , đặc biệt khu vực làng nghề, khu vực nông nghiệp, trong doanh nghiệp vừa và nhỏ, về việc bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, gắn kết với ý thức bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng, việc làm và sự phát triển bền vững. |
Tăng cường nâng cao nhận thức ATVSLĐ cho người sử dụng lao động và người lao động là vấn đề cần được chú trọng. Ảnh: bvđk tinh Thanh Hóa.com.vn |
Công đoàn và vấn đề đảm bảo ATVSLĐ cho người lao động tại các các khu công nghiệp, khu chế xuất |
Hiện nước ta có gần 11.000 doanh nghiệp và khoảng 3,2 triệu lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó đã thành lập 50 công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất tại 48/63 tỉnh, thành phố, với 304 cán bộ chuyên trách công đoàn, trực tiếp quản lý 5.894 công đoàn cơ sở (84%) với hơn 2 triệu đoàn viên công đoàn, có vai trò quan trọng trong việc đại diện, bảo vệ người lao động tại các khu vực trọng điểm này. Sau khi Việt Nam gia nhập và phê chuẩn các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, các công ước quốc tế về lao động, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự cạnh tranh trong sản xuất, lưu thông diễn ra gay gắt, kéo theo khả năng gia tăng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nếu công tác đảm bảo ATVSLĐ không được triển khai đầy đủ và hiệu quả. Số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy, số lượng các vụ tai nạn nghiêm trọng giai đoạn 2011 - 2020 không ngừng tăng lên. Mặt khác, với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam phải chấp hành nghiêm ngặt các tiêu chuẩn lao động, trong đó có tiêu chuẩn ATVSLĐ của Tổ chức Lao động Quốc tế và trong các hiệp định thương mại thế hệ mới. Một số nước sử dụng tiêu chuẩn ATVSLĐ làm hàng rào kỹ thuật đối với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào nước họ. |
Công tác đảm bảo ATVSLĐ không được triển khai đầy đủ và hiệu quả kéo theo khả năng gia tăng tai nạn lao động. Ảnh: Congly.vn |
Nhận thức được vấn đề trên, công tác ATVSLĐ nói chung, công tác ATVSLĐ tại các khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng đang từng bước được các doanh nghiệp, công đoàn các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn, nhất là sau khi có Chỉ thị 29-CT/TW năm 2013 và Luật ATVSLĐ. Tuy nhiên, tai nạn lao động vẫn chưa có chiều hướng giảm. Trong giai đoạn 2014 - 2020, tai nạn lao động có xu hướng tăng dần theo cả ba tiêu chí: Số vụ tai nạn, số người chết và số người bị thương nặng. Riêng năm 2020, có hơn 8.380 vụ tai nạn lao động làm 8.610 người bị tai nạn, 966 người chết và gần 2.000 người bị thương nặng. Trên thực tế, số vụ tai nạn lao động, số người mắc bệnh nghề nghiệp có thể lớn hơn nhiều con số được công bố vì hiện tại mới có khoảng 6% số doanh nghiệp báo cáo về công tác ATVSLĐ. Cùng với các ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, các ngành chức năng liên quan, các cấp công đoàn và công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất đã xác định rõ công tác ATVSLĐ là nhiệm vụ quan trọng của mình. Tổ chức Công đoàn đã đưa nội dung này vào chương trình, kế hoạch hoạt động hàng năm. Gắn công tác ATVSLĐ với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như quan tâm phối hợp với người sử dụng lao động ban hành các tiêu chí, chuẩn mực về ATVSLĐ trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Thường xuyên tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về ATVSLĐ, quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động và tổ chức Công đoàn đến các đối tượng liên quan; tiếp tục triển khai hiệu quả nội dung “Công đoàn tham gia cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, giai đoạn 2018 - 2023”. |
Cơ hội cho công tác ATVSLĐ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam |
Phần định hướng phát triển đất nước đến năm 2030 trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó đã nêu về công tác bảo đảm ATVSLĐ. Đây là cơ hội rất lớn của lĩnh vực ATVSLĐ nói chung và đối với công tác đảm bảo vệ sinh, an toàn lao động trong doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng. Trong khi các cấp ủy Đảng đang trong quá trình tích cực triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng theo Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị, công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng như công đoàn cơ sở của các doanh nghiệp, có cơ hội tham gia, đề xuất các giải pháp, nội dung, chương trình cũng như các mục tiêu, chỉ tiêu để đảm bảo ATVSLĐ và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong nền kinh tế thị trường, để doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững thì phải biết sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực, thực hiện tốt công tác ATVSLĐ và bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, quá trình lao động sản xuất luôn tiềm ẩn các nguy cơ gây ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và ô nhiễm môi trường. Xét trên góc độ kinh tế, đó là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm giảm năng suất lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, đi đôi với việc không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các cấp công đoàn trong các doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất cần tham gia với người sử dụng lao động để doanh nghiệp luôn phải coi trọng công tác ATVSLĐ nhằm kiểm soát được các nguy cơ, rủi ro, hạn chế tối đa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra trong quá trình sản xuất. |
Nâng cao hiệu quả quản lý ATVSLĐ không chỉ đảm bảo các quyền lợi, sức khoẻ và tính mạng cho người lao động mà còn nâng cao năng suất lao động, chất luợng sản phẩm. Ảnh: laodongthudo.vn |
Thực tế ở các nước phát triển cho thấy, việc xây dựng được hệ thống chính sách, pháp luật về ATVSLĐ phù hợp; áp dụng các tiêu chuẩn hệ thống quản lý trong đó đặc biệt chú trọng đến giảm thiểu nguy cơ mất ATVSLĐ, nâng cao hiệu quả quản lý ATVSLĐ không chỉ đảm bảo các quyền lợi, sức khoẻ và tính mạng cho người lao động mà còn nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, vị thế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển thị trường cho sản phẩm, hàng hóa Việt Nam nói chung và doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng. |