Bài cuối: Phát triển đoàn viên ngoài khu vực nhà nước: Khó ở đâu, gỡ ở đó
Phát triển đoàn viên - 20/03/2023 13:35 ĐỖ THIỆM
LĐLĐ TP.Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng công bố quyết định kết nạp đoàn viên, thành lập CĐCS doanh nghiệp. Ảnh: ĐVCC |
Nâng cao hiệu quả, ảnh hưởng của CĐCS
Thời gian qua, trước những thời cơ và thách thức đặt ra cho tổ chức Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP), phê chuẩn Công ước 87, Công ước 98 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tự do thành lập, tự do thương lượng về các vấn đề liên quan đến lao động, Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam đã có những chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn các cấp, nhất là CĐCS trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước.
Đặc biệt, cùng với tiếp tục thực hiện Kết luận số 79-KL/TW, ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới” được ban hành là định hướng, quan điểm của Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức , cũng là điều kiện thuận lợi để Công đoàn hoạt động trong tình hình mới.
Điều dễ nhận thấy và đã được đoàn viên, người lao động (NLĐ) đồng thuận, hưởng ứng, xã hội ghi nhận đó là vai trò của tổ chức Công đoàn đã được phát huy trong thời gian ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, kịp thời hỗ trợ đoàn viên, NLĐ mất việc làm, có hoàn cảnh khó khăn và đồng hành cùng doanh nghiệp, chính quyền phòng chống dịch bệnh, ổn định sản xuất kinh doanh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; hay hoạt động chăm lo, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đoàn viên, NLĐ trong dịp “Tháng Công nhân” và “Tết sum vầy” hằng năm đã trở thành “thương hiệu” của tổ chức Công đoàn.
Song, nhìn chung, những hoạt động này chủ yếu phát huy hiệu quả ở các công đoàn cấp trên còn ở cấp CĐCS vẫn còn không ít nơi chỉ dừng lại ở việc quen thuộc là tặng quà cho , NLĐ có hoàn cảnh khó khăn mà chưa tổ chức được các hoạt động phong phú, đa dạng nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên, NLĐ nên chưa tạo được sức hút đối với NLĐ, tự nguyện gia nhập công đoàn.
Để khắc phục vấn đề này, cần tập trung nâng cao chất lượng cán bộ CĐCS doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, bởi đây là đối tượng thường có sự biến động và chịu sự tác động, chi phối khá lớn từ phía người sử dụng lao động. Muốn vậy, phải phát huy tốt vai trò của công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, từ việc tìm kiếm, lựa chọn, giới thiệu, kiện toàn đội ngũ cán bộ CĐCS doanh nghiệp đến việc bồi dưỡng, tập huấn trang bị kiến thức, nâng cao kỹ năng tổ chức và hoạt động công đoàn, nhất là các kỹ năng mềm như: lập kế hoạch; tổ chức sự kiện; đạo diễn chương trình; sử dụng mạng xã hội... Đồng thời quan tâm, hỗ trợ, động viên, khuyến khích kịp thời để cán bộ CĐCS doanh nghiệp chủ động đổi mới các hoạt động ở cơ sở để nâng cao hiệu quả, ảnh hưởng của CĐCS với cả NLĐ và người sử dụng lao động.
Công đoàn chú trọng tổ chức hoạt động chăm lo đời sống đoàn viên, NLĐ trong doanh nghiệp. Ảnh: LĐLĐ tỉnh Kon Tum |
Đẩy mạnh tuyên truyền, lan tỏa về công đoàn
Như đã trình bày ở những bài trước, hiện nay một bộ phận NLĐ trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước còn chưa “mặn mà” gia nhập công đoàn. Trong thời gian tới, khi có sự chia sẻ “thị phần” do có tổ chức của NLĐ trong doanh nghiệp thì việc quyết định đến với công đoàn hay không sẽ là sự lựa chọn của NLĐ. Như vậy, các cấp công đoàn và cần đẩy mạnh và chú trọng đổi mới công tác tuyên truyền, tiếp cận để vận động NLĐ gia nhập công đoàn.
Vừa qua, phát biểu chỉ đạo Hội thảo chuyên đề lấy ý kiến ban hành quy chế xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn các cấp tại TP.HCM, Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam - Trần Thanh Hải khẳng định: “Nền móng của công đoàn là ở cơ sở, hoạt động của công đoàn là ở cơ sở và sức mạnh của công đoàn là từ cơ sở. Cán bộ công đoàn phải hiểu đúng, rõ bản chất công đoàn do chính NLĐ thành lập, sự tồn tại của công đoàn do NLĐ quyết định, để thấy được mình phải làm gì, làm thế nào để NLĐ tin mình và gia nhập tổ chức Công đoàn”.
Muốn vậy, ở những nơi chưa có tổ chức Công đoàn, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở phải khảo sát, với phương châm “Ở đâu có công nhân, ở đó có tổ chức Công đoàn”, phân công cán bộ bám sát cơ sở “Đi từng ngõ, rõ từng doanh nghiệp” để tiếp cận, tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên thông qua các hoạt động hỗ trợ NLĐ như: Tư vấn pháp luật; thăm hỏi, tặng quà; tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao…
Cùng với đó, cũng cần chú trọng việc tiếp cận, tuyên truyền, vận động đến chủ doanh nghiệp để tạo sự đồng thuận, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển đoàn viên, CĐCS trong doanh nghiệp. Một số hoạt động thiết thực để thuyết phục sự đồng hành của chủ doanh nghiệp như: Tổ chức diễn đàn “Doanh nghiệp vì NLĐ – NLĐ vì doanh nghiệp”; hỗ trợ doanh nghiệp đối thoại, thương lượng tập thể, xây dựng quy chế thực hiện dân chủ tại nơi làm việc; hỗ trợ doanh nghiệp tư vấn pháp luật cho NLĐ; kết nối, giới thiệu việc làm để tuyển dụng lao động; tư vấn, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động…
Còn đối với những doanh nghiệp đã có tổ chức Công đoàn, công đoàn cấp trên trực tiếp cần hỗ trợ kịp thời để CĐCS phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng và chăm lo đời sống cho đoàn viên được tốt hơn so với NLĐ. Đặc biệt là thông qua các chương trình phúc lợi cho đoàn viên, các hoạt động tham quan, du lịch, giao lưu với các đơn vị khác… Đồng thời chú trọng vận động, tổ chức lễ kết nạp đoàn viên mới trang trọng, tạo ấn tượng sâu sắc trong đoàn viên, NLĐ.
CĐCS Công ty TNHH May mặc Lực Thiêm Đắk Lắk tổ chức Chương trình Teambuiding với những trò chơi náo nhiệt, hấp dẫn đoàn viên, NLĐ. Ảnh: ĐVCC |
Phát huy lợi thế của tổ chức Công đoàn
Điều khác biệt cơ bản nhất giữa tổ chức Công đoàn Việt Nam và tổ chức của NLĐ khi được thành lập tại doanh nghiệp đó là: Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hệ thống chính trị nước ta; Công đoàn có hệ thống tổ chức bộ máy hoàn thiện ở cả 4 cấp, từ Trung ương đến cơ sở; đồng thời có đóng góp to lớn trong lịch sử đấu tranh xây dựng, bảo bệ Tổ quốc và công cuộc đổi mới đất nước; từ lâu Công đoàn đã hoạt động ổn định trong khuôn khổ Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam; có sự ảnh hưởng khá sâu sắc trong đời sống xã hội nước ta...
Đây là những lợi thế của tổ chức Công đoàn trong công tác phát triển đoàn viên, CĐCS ngoài khu vực nhà nước so với tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp. Phát huy những lợi thế này, các cấp công đoàn cần chủ động trong tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức Công đoàn và đội ngũ công nhân, viên chức, NLĐ; đưa nội dung này lồng ghép trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị hằng năm ở mỗi địa phương.
Đồng thời tăng cường công tác phối hợp, tranh thủ sự hỗ trợ, tạo điều kiện của các ngành chuyên môn, cơ quan quản lý nhà nước, nhất là trong lĩnh vực thu hút đầu tư, quản lý doanh nghiệp, quản lý lao động, an sinh xã hội và an ninh trật tự…để nắm chắc số lượng, tình hình doanh nghiệp đăng ký hoạt động mới, số lượng NLĐ trong mỗi doanh nghiệp để có kế hoạch chủ động tuyên truyền phát triển đoàn viên, CĐCS trong doanh nghiệp.
Còn đối với CĐCS trong doanh nghiệp cần nắm chắc tình hình, tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, NLĐ tại cơ sở và những hoạt động của tổ chức của NLĐ trong quá trình tuyên tuyền, vận động thành lập và đăng ký hoạt động để có những điều chỉnh kịp thời cả về nội dung, phương thức hoạt động của CĐCS, thích ứng linh hoạt trong môi trường “cạnh tranh” mới.
Muốn vậy, cán bộ và CĐCS cần xác định đúng vai trò, vị trí của mình trong hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam, không chỉ đơn thuần là nơi triển khai các nghị quyết, chỉ đạo, hướng dẫn của công đoàn cấp trên đến trực tiếp đến với đoàn viên, NLĐ và tiếp thu ý kiến, kiến nghị của họ để phản ánh về công đoàn cấp trên. Hơn thế, CĐCS phải thực sự là “mái nhà chung” của đoàn viên, NLĐ, để họ được sum họp, chia sẻ những vui, buồn, khó khăn và được chở che, bảo vệ khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ bị xâm phạm. Có như vậy mới có thể thu hút thêm được NLĐ gia nhập và “giữ chân” đoàn viên gắn bó lâu dài với tổ chức Công đoàn.
Phó Chủ tịch Thường trực Tổng LĐLĐ Việt Nam - Trần Thanh Hải (người đứng) phát biểu tại Hội thảo chuyên đề lấy ý kiến ban hành quy chế xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn các cấp. Ảnh: Nam Dương |
Tập trung nguồn lực
Chúng ta có thể nhận thấy, thời gian gần đây, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã có những quyết sách kịp thời để tăng cường nguồn lực cho hoạt động của CĐCS, nhất là CĐCS trong doanh nghiệp theo phương châm, chủ trương như: “Hướng hoạt động về cơ sở”, “Vì đoàn viên, NLĐ”, “Công đoàn cấp trên phục vụ công đoàn cấp dưới, cán bộ công đoàn phục vụ đoàn viên, NLĐ”; “Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể”, hay tăng tỷ lệ được sử dụng kinh phí công đoàn ở cấp cơ sở lên 75%... Đây là những quan điểm, định hướng và hành động cụ thể hóa việc “Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới” đã được các cấp công đoàn triển khai thực hiện khá hiệu quả trong thời gian qua.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động công đoàn cho thấy, thời gian tới, trước những nhu cầu của đoàn viên, NLĐ và thách thức đặt ra cho Công đoàn Việt Nam thì ngoài sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ công đoàn và các cấp công đoàn, Tổng LĐLĐ Việt Nam cũng cần nghiên cứu, điều chỉnh một số cơ chế, chính sách để tập trung nguồn lực cho hoạt động của CĐCS và công tác phát triển đoàn viên, CĐCS ngoài khu vực nhà nước, cụ thể là:
Thứ nhất, về biên chế cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở: Đây là cấp công đoàn trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và hỗ trợ CĐCS, đặc biệt theo pháp luật hiện nay, ở những nơi chưa có CĐCS thì công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở được thực hiện những quyền của CĐCS, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, NLĐ.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, về biên chế, ở mỗi công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở (tương đương cấp huyện) hiện nay chỉ có 2-3 biên chế, trong khi đó khối lượng và yêu cầu công việc ngày càng cao vì số đoàn viên, NLĐ ngày càng tăng, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ngày càng phức tạp; vừa thực hiện nhiệm vụ chuyên môn công đoàn, vừa phải thu kinh phí để đảm bảo hoạt động lại vừa tham gia các hoạt động chính trị ở địa phương như những tổ chức chính trị - xã hội khác.
Nếu so sánh với các tổ chức chính trị - xã hội khác ở cùng cấp như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên thì hiện nay, mỗi tổ chức này ở cấp huyện thường có 4 – 5 biên chế; trong khi đó, số đoàn viên, hội viên của các tổ chức này thường ít và ổn định hơn so với công đoàn, số đầu mối cơ sở cũng ít hơn công đoàn, chủ yếu là gắn với các đơn vị hành chính cấp xã và cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, có tổ chức Đảng lãnh đạo, lại được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước mà không phải thực hiện nhiệm vụ thu kinh phí để đảm bảo hoạt động như tổ chức Công đoàn.
Vì vậy, Tổng LĐLĐ Việt Nam cần sớm đề xuất với Trung ương có những cơ chế về quản lý cán bộ chuyên trách công đoàn nói chung và công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở nói riêng, tốt nhất, có thể được chủ động theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến cơ sở như một số ngành: Bảo hiểm xã hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân…; đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ hai, về chính sách đãi ngộ với cán bộ CĐCS: Hiện nay theo Quyết định số 5692/QĐ-TLĐ, ngày 08/12/2022 của Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam ban hành Quy định chế độ phụ cấp cán bộ công đoàn các cấp, công đoàn cấp cơ sở được sử dụng tối đa 45% số thu đoàn phí công đoàn để lại CĐCS dùng cho chi phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp kiêm nhiệm và chi lương cán bộ công đoàn chuyên trách (nếu có). Đồng thời, hệ số phụ cấp trách nhiệm chủ tịch CĐCS khu vực doanh nghiệp và CĐCS ngoài khu vực nhà nước được xác định theo số lượng đoàn viên công đoàn, kết quả nộp đoàn phí công đoàn của năm trước liền kề, thực hiện theo khung số lượng đoàn viên từ 50 đến 30.000 đoàn viên, tương ứng với hệ số từ 0,10 đến 1,0 so với mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định. Các đối tượng còn lại do ban chấp hành CĐCS căn cứ nguồn chi được duyệt để cụ thể hóa hệ số chi phụ cấp trong quy chế chi tiêu nội bộ của CĐCS.
Với chính sách này, chưa thực sự thu hút đối với cán bộ CĐCS doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp có ít công nhân lao động, bởi số tiền phụ cấp như vậy chưa tương xứng với yêu cầu công việc mà cán bộ CĐCS trong doanh nghiệp phải thực hiện và những rủi ro trong quá trình hoạt động của họ.
Thứ ba, về cơ chế bảo vệ cán bộ CĐCS: Theo quy định của Luật Công đoàn năm 2012 và các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cơ bản đã khá hoàn thiện. Song trong thực thi hầu như những quy định này chưa đi vào cuộc sống, chế tài xử lý vi phạm chưa được thực hiện nghiêm, thậm chí có những quy phạp pháp luật chưa hề được áp dụng trong thực tiễn như: “Trường hợp hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hết hạn mà NLĐ là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ thì được gia hạn hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc đến hết nhiệm kỳ”; hay “Đơn vị sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, sa thải, buộc thôi việc hoặc thuyên chuyển công tác đối với cán bộ công đoàn không chuyên trách nếu không có ý kiến thỏa thuận bằng văn bản của ban chấp hành CĐCS hoặc ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở”…
Trong thực tế, cán bộ CĐCS trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước vẫn luôn phải chịu thiệt thòi trong quá trình thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật…
Với những giải pháp, kiến nghị, đề xuất nêu trên và phương châm “Khó ở đâu, gỡ ở đó”, Tổng LĐLĐ Việt Nam và mỗi cấp công đoàn ở từng địa phương, đơn vị, doanh nghiệp sẽ nghiên cứu, có những cách làm phù hợp để công tác phát triển đoàn viên, CĐCS ngoài khu vực nhà nước ngày càng hiệu quả hơn, góp phần thiết thực “Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”.
Bài 5: Thách thức đối với Công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp FDI ngày càng lớn Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Hiệp định CPTPP, phê chuẩn Công ước 87, Công ước 98 của Tổ chức lao động quốc tế ... |
Tin cùng chuyên mục
Phát triển đoàn viên - 13/09/2024 08:16
Xác định công tác phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn, thời gian qua, Công đoàn ngành Công Thương tỉnh Quảng Trị đã đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, vận động gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn sơ sở để thu hút người lao động tham gia tổ chức Công đoàn.
Công đoàn - 08/09/2024 19:53
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng từ đầu năm tới nay, Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) thành phố Pleiku đã thành lập 14 công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn cơ sở, vượt 233% chỉ tiêu LĐLĐ tỉnh Gia Lai giao năm 2024. Tạp chí Lao động và Công đoàn có cuộc trao đổi với đồng chí Đỗ Xuân Quý – Chủ tịch LĐLĐ thành phố Pleiku về hoạt động này.
Phát triển đoàn viên - 05/09/2024 09:51
Công đoàn Công Thương Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2028, toàn ngành sẽ có 182.258 đoàn viên. Riêng trong năm 2024, đơn vị đặt chỉ tiêu phát triển 3.500 đoàn viên.
Phát triển đoàn viên - 03/09/2024 16:32
LĐLĐ quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng đang là điểm sáng về phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở khi vượt chỉ tiêu năm được cấp trên giao chỉ sau 7 tháng.
Phát triển đoàn viên - 02/09/2024 13:27
“Vận động lao động phi chính thức tham gia tổ chức Công đoàn nhằm mang lại quyền lợi cho người lao động, đóng góp vào hệ thống an sinh xã hội. Đồng thời, giúp tăng cường sức mạnh của tập thể người lao động, góp phần nâng cao vị thế của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới”, đó là nhận định của đồng chí Trần Thị Minh Nguyệt - Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phát triển đoàn viên - 27/08/2024 21:49
Liên đoàn Lao động thành phố Đà Lạt vừa thành lập Công đoàn cơ sở Chi nhánh MerPerle Đà Lạt Công ty cổ phần Khải Vy với 243 đoàn viên. Lãnh đạo LĐLĐ tỉnh Lâm Đồng kỳ vọng tổ chức Công đoàn đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và đồng hành cùng đơn vị chăm lo cho người lao động ngày một tốt hơn.